Otto Warburg là một nhà sinh lý học, bác sĩ y khoa người Đức, ông dành rất nhiều năm để nghiên cứu về tế bào và bệnh ung thư. Otto Warburg đạt giải Nobel  Sinh lý học và Y khoa năm 1931 [1]. Ông tin tưởng chắc chắn rằng tất cả các bệnh thoái hóa là kết quả của sự thiếu oxy ở cấp độ tế bào. Câu nói của ông thường được trích dẫn là: “Ung thư chỉ có một nguyên nhân chính. Đó là sự thay thế hô hấp oxy bình thường của các tế bào trong cơ thể bằng hô hấp kị khí của tế bào”.

Mục lục bài viết

Tế bào bị oxy hóa dần dần biến đổi thành tế bào ung thư

Bác sĩ Warburg chỉ ra rằng chất nào lấy đi oxy của tế bào là chất gây ung thư. Cơ thể chúng ta được cấu tạo chủ yếu là nước, trong đó hơn 90% là oxy. Mỗi tế bào của cơ thể đòi hỏi được cung cấp oxy không ngừng để nuôi các phản ứng hóa học tạo ra năng lượng, giải độc chất thải, và duy trì sản sinh các thành phần cấu trúc tế bào. Ông cho biết việc đi tìm các chất gây ung thư là không cần thiết, bởi vì nó che khuất nguyên nhân chính là tế bào bị tước đi oxy và do đó ngăn cản điều trị thích hợp.

Cơ thể sử dụng oxy hóa như tuyến đầu tiên bảo vệ chống lại vi khuẩn, vi-rút, nấm men và ký sinh trùng. Hầu hết các phản ứng sinh hóa trong cơ thể là “cân bằng” thông qua các cơ chế khử. Khử có nghĩa là giảm oxy hóa. Bất cứ khi nào một chất bị “giảm” (thu electron), thì thứ khác phải bị “oxy hóa” (tức là mất đi electron) để các phản ứng giữ “cân bằng” [2]. Tế bào bị mất electron dần dần biến đổi thành tế bào dị thường hay tế bào ung thư.

Gốc tự do (Free Radical) không ngừng cướp đoạt electron từ các tế bào gần nó và dần dần biến chúng thành tế bào ung thư

Gốc tự do (Free Radical) không ngừng cướp đoạt electron từ các tế bào gần nó và dần dần biến chúng thành tế bào ung thư

Loại bỏ độc tố để có hệ miễn dịch mạnh hơn khi điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa sinh học

Tiến sỹ Warburg cho biết có hai chất tự nhiên đơn giản sử dụng trong lâm sàng đã được ghi nhận trong các tài liệu y tế kể từ năm 1920 và đã được chứng minh hiệu quả trong điều trị một số bệnh nguy hiểm phổ biến nhất, gồm cả bệnh tim, ung thư và AIDS. Đó là hydrogen peroxide (H2O2) và ô-zôn (O3), được sử dụng trong chữa bệnh gọi chung là “các liệu pháp oxy hóa sinh học”.

Ảnh chân dung của Tiến sỹ Otto Warburg

Ảnh chân dung của Tiến sỹ Otto Warburg

Nếu hệ thống oxy của cơ thể bị yếu hoặc thiếu (do không tập thể dục, chế độ ăn uống không lành mạnh, ô nhiễm môi trường, hút thuốc lá, hoặc thở không đúng), cơ thể không thể loại bỏ thỏa đáng các độc tố. Các liệu pháp oxy hóa sinh học được sử dụng để cung cấp cho cơ thể oxy dạng tích cực (uống, tiêm tĩnh mạch, hoặc qua da) để loại bỏ độc tố và chống lại bệnh tật.

Khi hydrogen peroxide hoặc ô-zôn trong cơ thể tách nhỏ thành vô số gốc oxy hóa phụ khác nhau, chúng tiếp xúc với vi sinh vật kị khí (vi sinh vật có khả năng sống không cần có không khí), cũng như các tế bào mô thiếu hụt hoặc bị bệnh. Khi cơ thể trở nên bão hòa với những hình thức đặc biệt này của oxy, nó đạt đến trạng thái tinh khiết trong đó các vi sinh vật gây bệnh bị tiêu diệt, trong khi độc tính cơ bản bị oxy hóa và loại bỏ. Kết quả là tạo ra một hệ miễn dịch mạnh hơn và cải thiện toàn bộ đáp ứng miễn dịch.

Những lợi ích từ tác dụng chống oxy hóa đối với cơ thể

Tạp chí Science có một báo cáo khoa học do một số bác sĩ y khoa viết (Frederick Sweet, Ming-Shian Kao, Song-Chiau Lee, Will L. Hagar, and Wileen E. Sweet) tựa đề Ozone Selectively Inhibits Growth of Human Cancer Cells [3] (tạm dịch Ô-zôn chọn lọc ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư ở người).

Nội dung báo cáo cho biết:

“Sự phát triển của các tế bào ung thư ở người đến từ ung thư phổi, vú và tử cung đã được ngăn chặn một cách chọn lọc với liều phụ thuộc ô-zôn ở 0,3 đến 0,8 phần triệu ô-zôn trong không khí xung quanh trong tám ngày nuôi cấy. Nhị bội nguyên bào sợi phổi người hoạt động như những tế bào kiểm soát không ung thư. Sự hiện diện của ô-zôn ở 0,3 đến 0,5 phần triệu đã ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư tương ứng 40% và 60%.

Các tế bào phổi không ung thư không bị tác động ở những mức này. Tiếp xúc với ô-zôn tại 0,8 phần triệu ức chế sự tăng trưởng tế bào ung thư hơn 90% và kiểm soát sự tăng trưởng của tế bào nhỏ hơn 50%. Rõ ràng cơ chế chống oxy hóa phòng vệ sự suy giảm gây tổn hại trong các tế bào ung thư ở người.” Bằng chứng từ những nghiên cứu này của các bác sĩ là không thể chối cãi.

Tác dụng chống oxy hóa của hydrogen peroxide (H2O2) là không thể  khi nó tham gia tất cả các quá trình quan trọng của cuộc sống và phải có mặt trong hệ miễn dịch giúp hệ này hoạt động bình thường. Sữa non (trong sữa mẹ) có nồng độ H2O2 rất cao. Các tế bào trong cơ thể làm nhiệm vụ chống nhiễm trùng sản xuất H2O2 tự nhiên như tuyến đầu bảo vệ chống lại sự xâm nhập của sinh vật (như ký sinh trùng, vi rút, vi khuẩn, và men) [2].

Sách tham khảo về ung thư của tác giả TY BOLLINGER

Sách tham khảo về ung thư của tác giả TY BOLLINGER

Bác sĩ Charles Farr đã chỉ ra rằng H2O2 kích thích hệ thống enzyme oxy hóa trong cơ thể, gia tăng mức độ trao đổi chất, làm các động mạch nhỏ giãn ra và tăng lưu lượng máu, tẩy sạch độc tố, tăng nhiệt độ cơ thể, và tăng cường phân phối và tiêu thụ oxy của cơ thể. H2O2 cũng kích thích sản xuất các tế bào bạch cầu rất cần thiết để chống nhiễm trùng.

Vào những năm 1950, bác sĩ Reginald Holman đã tiến hành các thí nghiệm liên quan đến việc sử dụng H2O2 bổ sung vào nước uống của những con chuột có khối u ung thư. Các khối u đã biến mất hoàn toàn trong vòng 15 đến 60 ngày.

Trong một bài báo, bác sĩ Kurt Donsbach viết: “30 gam 35% hydrogen peroxide (cho mỗi 3,785 lít nước) trong bình phun hơi mỗi đêm trong phòng ngủ khí thũng sẽ giúp người ta hít thở thoải mái hơn! Tôi làm điều này cho bệnh nhân ung thư phổi của mình.”

Các lưu ý về H2O2 khi điều trị ung thư

Chỉ có H2O2 rất tinh khiết mới được sử dụng để điều trị

Trong suốt quá trình điều trị cần được theo dõi bởi các bác sĩ có hiểu biết và chuyên môn sâu về H2O2, tuyệt đối không nên tự thực hiện tại nhà.

Tránh xa H2O2 mua ở cửa hàng tạp hóa vì nó chứa hóa chất độc hại. Nó chỉ dành để sử dụng ngoài da. Bệnh nhân ung thư nên tránh xa dạng này của H2O2.

Tác dụng chống oxy hóa của fucoidan

Từ những lợi ích của tác dụng chống oxy hóa đối với tế bào đã kể trên thì còn có hợp chất quý giá khác như fucoidan cũng chứa hoạt tính có tác dụng chống oxy hóa. Hợp chất fucoidan rất hiệu quả khi sử dụng như thực phẩm bổ sung hằng ngày để tăng cường hệ miễn dịch tự nhiên cho cơ thể.

Fucoidan là tổ hợp phân tử polysaccharide chứa sulfate fucose – hợp chất nhờn chỉ có ở những loài tảo biển (rong nâu). Đã có nhiều công trình khoa học công bố fucoidan chứa nhiều hoạt tính hữu ích có tác dụng chống oxy hóa gồm:

  • Giúp tăng cường hệ miễn dịch, tăng cường hoạt động của các tế bào đề kháng tự nhiên của cơ thể.
  • Thúc đẩy sự hoạt động của các đại thực bào. Thúc đẩy quá trình phát hiện ra những tác nhân bất lợi xâm nhập vào cơ thể để vô hiệu hóa và làm chúng biến mất theo cơ chế tự nhiên.
  • Trong vai trò là chất chống oxy hóa ngoại sinh, fucoidan giúp chống lại sự gia tăng của các gốc tự do, vô hiệu hóa tác hại của các gốc tự do, nhờ đó ngăn chặn sự tăng sinh tế bào ung thư và hiện tượng di căn khối u trong phổi.

Fucoidan chứa nhiều hoạt tính hữu ích có tác dụng chống oxy hóa

Fucoidan chứa nhiều hoạt tính hữu ích có tác dụng chống oxy hóa

Xem thêm về các sản phẩm fucoidan tại đây

 

Tài liệu tham khảo

[1] https://www.nobelprize.org/prizes/medicine/1931/warburg/facts/

[2] Tên cuốn sách : Ung thư, sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại. Sách của tác giả TY BOLLINGER được dịch bởi NGUYỄN ANH TUẤN. In ấn bởi NXB Thế giới và phân phối bởi Công ty cổ phần sách Thái Hà.

[3] https://www.science.org/doi/10.1126/science.7403859

Đánh giá post này